- Back to Home »
- Tài liệu »
- QUÁ TRÌNH TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỰ HỌC CHO SINH VIÊN
Posted by : Unknown
Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014
QUÁ TRÌNH TỰ HỌC
VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY TỰ HỌC CHO SINH VIÊN
Th.S
Dương Thị Thanh Huyền
Bộ môn Khoa học Xã hội &
Nhân văn
1. MỞ ĐẦU
Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh
chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu
cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội.
Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là một công việc có vị trí
cực kì quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri
thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi SV mới có thể bù đắp
được những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó có được
sự tự tin trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình.
Vấn
đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt
sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “
Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng
tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát
triển mạnh mẽ phong trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân”[1].
Trên tinh
thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí
cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Trong khuôn
khổ báo cáo này chúng tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề liên quan đến khái
niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy tự học, đặc biệt là
quan tâm đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho SV. Để từ đó thúc đẩy
quá trình rèn luyện kĩ năng tự học cho SV, góp phần vào công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
2. NỘI DUNG
Trước hết
cần xác định rõ khái niệm tự học là gì? Vị trí của hoạt động tự học đối với quá
trình học tập nghiên cứu của mỗi người ra sao? Nội dung phương pháp tự học bao
gồm những vấn đề nào?... Đây là những vấn đề mà các nhà nghiên cứu giáo dục đã
dày công nghiên cứu từ lâu. Tuy nhiên, cần nhận thức một điều rằng: do sự chi
phối của điều kiện lịch sử mà việc vận dụng những tri thức cũng như phương pháp
dạy tự học trong từng giai đoạn cần có sự khác nhau. Nhất là ở xã hội hiện tại,
khi mà thông tin tri thức khoa học bùng nổ tràn ngập trên các phương tiện thông
tin đại chúng, người học rất khó định hướng trong việc lựa chọn tiếp cận tri
thức thì vai trò hướng dẫn của người thầy là rất cần thiết.
2.1. KHÁI NIỆM TỰ HỌC
a. Tự học là gì?
Trong tập
bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV
trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH
Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động
độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ,
sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)cùng các
phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào
đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu
của chính bản thân người học”.
Tác giả
Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự
học: “Tự học là người học tích cực chủ
động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện
mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí
các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc
quá trình cá nhân hóa việc học”.
Trong bài
phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất
lượng dạy học tổ chức vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương
cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng
chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của
nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho
mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những
quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi cùng, gắn bó
chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri
thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát
huy hiệu quả thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn
thiện thì mỗi SV phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn
luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
b. Vị trí vai trò của tự học
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình
dạy học.
Từ lâu các
nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình
hoạt động dạy học (DH) giảng viên (GV) không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ
những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu SV ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải
định hướng, tổ chức cho SV tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới
của các vấn đề khoa học. Giúp SV không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết
cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại
còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới
phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu
nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Bởi vì SV đại học không phải là những
học sinh cấp bốn. Họ cần có thói quen nghiên cứu khoa học, mà để có được thói
quen ấy thì không thể không thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên
bước đường học tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải
quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách
tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập.
Một trong
những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng
tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là
hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo
ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động,
góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực
tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong
xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao
về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự
hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học
tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu
khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ
được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó
bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ
động học tập suốt đời, học
tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người
thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự
học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt
nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả
những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học
có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học
vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày
càng được nâng cao.
Với
những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học,
đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực
tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
2.2. NỘI DUNG CỦA TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỰ HỌC CHO
SINH VIÊN
2.2.1. Nội dung của quá trình
tự học
Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào
để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc
tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của
SV thì mỗi GV rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các
phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho SV. Đặc biệt là việc nhận
diện xem những phương pháp đó ngoài sự thích ứng chung cho mọi SV có đáp ứng
được cho từng nhóm đối tượng trong những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác
nhau trong suốt quá trình đào tạo hay không.
Để đáp
ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt động tự học
như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ
theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó
xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả
các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống nhất về cách
thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định như sau:
a/ Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi
hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự
xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn
là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì,
thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu
tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao
động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là
những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không có thực
lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn
tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng
tạo bất tận.
Trong rất
nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản:
-
Các
động cơ hứng thú nhận thức.
-
Các
động cơ trách nhiệm trong học tập.
Thông
thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một
cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ, động và chứa
nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện thường
xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận
hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học.
Động cơ
nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý
nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối
với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em mới có ý thức
kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những
yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và sự điều chỉnh
của dư luận.
Cả hai
động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được
đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng
từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm tâm sinh
lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dây
hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi SV. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi
điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình.
Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò
giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có
ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ
cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng
thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã
được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ
học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn
toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những
hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại
sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy
trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò
chủ đạo.
b/ Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với
bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch
học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác
định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng
môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm
từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề
kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên
tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải
thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được
trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn
thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục
theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình
tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
c/ Tự mình nắm vững nội dung
tri thức
Đây là
giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến
thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay
sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính bản thân
người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động:
- Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp
nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định
như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội
thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự
tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện
đại đang khiến phần lớn SV rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe
nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức
thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì giới
trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức
nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp
tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực
tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt động của trí não, một hoạt động
tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công
việc không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn
phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau
khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách
hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thông
thường.
- Xử lí
thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra
trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình
này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng
hợp, so sánh…
- Vận dụng
tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải
quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình
huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… SV thường gặp rất
nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp
phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong
trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần
tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực
tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư
duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần
thiết.
- Trao đổi,
phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay
diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học,
thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp
nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ
năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ
động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm
tốt.
d/ Tự kiểm tra đánh giá kết
quả học tập:
Việc nhìn
nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức
độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập
thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất
cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua nó
người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm được, điều gì
chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát
huy.
Vấn đề tự
học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết SV
phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản
thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Ngoài ra, rất
cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang bị cho
SV một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa
học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo của SV mới đi vào chiều sâu thực chất.
2.2.2. Dạy phương pháp tự học
cho sinh viên
Ngoài
những nội dung và phương pháp chung
được trình bày ở trên mỗi môn học,
mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và, với GV cũng vậy, cũng với những
phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời điểm cũng
có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng
lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa. Tâm lí chung với đối tượng SV các chuyên
ngành thuộc khối Tự nhiên – Kĩ thuật thường ngại các môn KHXH – NV có nhiều
chữ, một phần do không thuộc sở trường một phần quĩ thời gian ngày càng eo hẹp,
việc học các học phần này thường chiếm nhiều thời gian. Do vậy trong báo cáo
này, việc xác định các phương pháp dạy cho SV tự học các môn thuộc KHXH –NV
được chúng tôi quan tâm nhiều hơn.
Dạy phương
pháp tự học cho SV ở các môn Khoa học tự nhiên – Kĩ thuật đã được định hình từ
lâu bằng những yêu cầu cụ thể rõ ràng như thực hành bài tập, vẽ sơ đồ…Việc kiểm
tra SV có thực hiện yêu cầu học tập mà GV giao hay không cũng vì thế mà dễ xác
định và đỡ mất thời gian hơn. Còn đối với các môn thuộc lĩnh vực Xã hội Nhân
văn không hề dễ dàng. Từ đặc thù của lĩnh vực chuyên ngành xã hội, qua nghiên
cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều năm chúng
tôi đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho
SV. Đó là:
a/ Dạy cách lập kế hoạch học tập
Trên cơ sở
đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập
sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù hợp với điều kiện của
mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán triệt để SV hiểu
rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn
phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc
làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri thức tích lũy
kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian
cũng cần được đặt ra để không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng
như áp lực công việc.
b/ Dạy cách nghe giảng và ghi
chép theo tinh thần tự học.
Nghe giảng
và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá trình học tập.
Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở những môn học khác
nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên đây là vấn đề mà
xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen
ghi chép để có thể có được những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan
trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của hoạt
động nghe – ghi chép. Với các môn KHXH – NV thường có dung lượng câu chữ nhiều,
việc vừa chú ý theo dõi để tri nhận thông tin vừa mong muốn ghi chép thật đầy
đủ khiến đôi lúc trở thành một thách đố lớn. Các em thường mang lối học thụ
động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều SV chỉ chờ
GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ
trống vở khiến tâm lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức.
Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh
hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn
từ, sử dụng tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm
lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn
mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình
học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi
GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên
thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được.
Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi
chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung
bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình huống giả
định yêu cầu SV suy nghĩ phản biện (d/c).
- Các câu
hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập trung vào
trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung chính.
- Đưa
vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ thực
tế có liên quan trực tiếp đến đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối
tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học. (d/c)
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu
cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình huống sát với nội dung bài học để thay đổi
không khí, tăng cường sự chú ý của cả lớp.
- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng
cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý của người học.
Tất cả
những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý của
cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn tổ chức
còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh hội tri
thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
c/ Dạy cách học bài
Vấn đề mấu
chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần giới thiệu
và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom. Tức
là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình huống thực
tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó còn
phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm
ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.
Việc đưa ra
các tình huống vấn đề gắn với thực tiễn đời sống xã hội là ưu thế của các học
phần thuộc lĩnh vực XHNV. GV cần cho những tình huống sau mỗi bài/ chương/ mục
và yêu cầu SV chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng cá nhân hay từng
nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết.
Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội
cho các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề,
giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng
thuật một sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính
kiến trước một hiện tượng. Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ
nhận thức của SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất
lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.
d/ Dạy cách nghiên cứu
Trước hết
là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với sở trường
năng lực của mình và yêu cầu của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy cách lựa
chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong khuôn khổ
thời gian cho phép. Cơ sở lí luận của các môn KHXH&NV thường mang tính hàn
lâm, tính kế thừa cao. Trong lúc trên thực tế các vấn đề xã hội lại thay đổi
từng giây. Vì thế việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi
hỏi mỗi người phấn đấu nắm bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi
cũng là một thách thức lớn. Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn phạm vi bao
nhiêu, cách viện dẫn những thông tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn
đề điển hình nào cho có tính thuyết phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ
lưỡng chu đáo từ phía GV. Một đề cương nghiên cứu chuẩn mực, khoa học trong cấu
trúc chung từ tổng quan của vấn đề nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển
khai và cách xác định phương pháp nghiên cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi
SV. Cần hình thành và rèn luyện cho các em sớm có được kĩ năng ấy. Ngoài ra,
việc tự kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên cơ sở tranh thủ ý kiến của
bạn bè thầy cô cũng đem lại lợi ích thiết dụng cho người nghiên cứu, nhất là
những SV bước đầu làm quen với khoa học.
Bốn vấn đề
cốt lõi nêu trên chỉ là những chỉ dẫn cần thiết, mang tính định hướng. Còn việc
vận dụng ra sao còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Sự cố gắng đầy ý chí nghị lực
của người học, sự mẫn cán tận tâm và chu toàn của người dạy cùng những điều
kiện tiên quyết khác. Duy có một điều không cần bàn cãi là phương pháp dạy học
ở bậc học đại học hiện nay không thể thiếu việc dạy cách học.
3. KẾT LUẬN
Hiện
nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn SV còn thụ động trong việc
tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học luôn là bài
toán khó cho không ít SV kể cả SV năm cuối. Thế nhưng vấn đề này vẫn chưa được quan
tâm đúng mức. Do áp lực của khối lượng công việc luôn quá tải nên GV chỉ mãi lo
thực hiện chức năng của mình mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện
trong đó tự học cho SV trong đó kĩ năng tự học. Vì vậy, mỗi trường đại học hiện
đại cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần
thiết cho SV khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với
xã hội, trong suốt cuộc đời. Khi tự học, mỗi SV hoàn toàn có điều kiện để tự
nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập theo một phong cách riêng với
những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân SV nắm
được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học
tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng
lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân
SV tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay
cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của SV trên con đường học
tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ
thời.
Từ đó, dễ
nhận thấy rằng: cùng với đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu trên tất cả các
lĩnh vực và với một xã hội đầy biến động như xã hội nước ta về sử dụng lao
động, tiền lương, sự đãi ngộ và quá trình đào tạo ngày càng đi vào chiều sâu
thực chất thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn sẽ tìm được
sự đồng thuận cao của cộng đồng và là mảnh đất tốt cho bất kì ai có khát vọng
học tập suốt đời.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bá Hoành, Tháng 7/1998, Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình
dạy học giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục.
2. Lưu Xuân Mới, 2001, Phương pháp dạy học đại
học, Nxb Giáo dục.
3. Lê Đức Ngọc, Tháng 8/2004, Dạy cách học một trong những giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo đại học, Tạp chí Dạy và học ngày nay.
4. Vũ văn Tảo, Tháng 4/2001, Học và dạy cách học, Tạp chí Tự học.
5. Thái Duy Tuyên, 2003, Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường Cao đẳng Đại học chuyên
nghiệp, Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên Cao học, ĐH Huế.